Thầy Đỗ Đức Ngọc là người sáng lập ra môn khí công tự chữa bệnh riêng của người Việt Nam lấy tên là Khí Công Y Đạo Việt Nam và đã dạy môn này ở Saigon từ năm 1980 và truyền bá môn học này từ năm 1993 khi sang định cư tại Canada.


 Giới thiệu về Khí Công Y Đạo Việt Nam

Vương Văn Liêu

Email: vvlieu@gmail.com

Mobile 0913558331

 

 I-Sơ lược lịch sử phát triển

     Thầy Đỗ Đức Ngọc là người sáng lập ra môn khí công tự chữa bệnh riêng của người Việt Nam lấy tên là Khí Công Y Đạo Việt Nam và đã dạy môn này ở Saigon từ năm 1980 và truyền bá môn học này từ năm 1993 khi sang định cư tại Canada.
     Khí Công Y Đạo: Là một phương pháp tổng hợp của Đông y học cổ truyền bao gồm cách điều chỉnh bệnh bằng ăn uống thuộc tinh, cách điều chỉnh bệnh bằng tập luyện cơ thể để chuyển tinh lực ra khí lực thuộc khí, và cách điều chỉnh bệnh bằng phương pháp tập thở thiền là điều dưỡng tinh thần an vui hòa hợp thuộc thần. Vì tất cả nguyên nhân gây bệnh đều do xáo trộn chức năng thần kinh do ăn uống sai lầm làm tinh sai, kém tập luyện cơ thể làm khí thiếu, hoặc xáo trộn tâm lý bất thường như giận hờn, ghen ghét, lo âu, sợ hãi, buồn chán, làm việc căng thẳng qúa độ khiến thần kinh suy nhược gọi là thần suy.
     Tinh sai, khí thiếu, thần suy là do tự mình làm ra. Tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh do sai lầm ăn, ngủ, nghỉ không điều độ và không tập luyện thân thể làm rối loạn chức năng thần kinh thì mình phải biết cách tự điều chỉnh lại những sai lầm ấy. Vì thế tập luyện Khí Công Y Đạo để tự chữa bệnh chính là cách điều chỉnh lại tinh- khí- thần theo phương pháp tự nhiên của Y học cổ truyền Đông phương.
    Định nghĩa từng chữ Khí Công Y Đạo thì Khí là hơi thở, là sự khí hoá, sinh hóa và chuyển hóa tinh thành khí, chuyển khí hóa thần. Chữ Công là công phu luyện tập hơi thở, công phu học hỏi hiểu lý thuyết biết thực hành cách chuyển tinh hoá khí, khí hóa thần. Chữ Y là tìm hiểu y lý nguyên nhân gây bệnh và cách điều chỉnh cho khỏi bệnh. Chữ Đạo là con đường hướng dẫn y lý Đông phương và là con đường tu tâm dưỡng tánh nhu hòa để bảo tồn nội lực của tinh khí thần, nội lực của tinh là tinh lực, nội lực của khí là khí lực và nội lực của thần là thần lực..
    Chúng ta thường biết đến khí công Tài chi của Trung quốc rút ra từ võ thuật Thái cực quyền của Tổ sư Trương tam Phong, kết hợp giữa khí công hơi thở và động tác theo biến động âm dương trong thái cực đồ, loại này thích hợp cho người lớn tuổi tập luyện thể lực bằng những động tác nhẹ nhàng chậm rãi dùng để dưỡng sinh, yoga cũng là loại khí công tập thể lực nhẹ nhàng của Ấn độ, ngoài ra còn các loại khí công thuộc các trường phái Lão học luyện hơi thở qua ba đan điền trên cơ thể tạo ra đời sống toàn vẹn về vật chất, tinh thần và tình cảm của con người, ba yếu tố đó là tinh-khí-thần, lấy tâm pháp diệt ái dục để tinh đầy đủ hóa thành khí, luyện khí hóa thần, thần vững vàng không dao động sẽ hòa đồng nhịp sinh học với môi trường thiên nhiên trong vũ trụ gọi là thần hoàn hư. Trường phái Phật học do Tổ sư Đạt Ma sáng lập mục đích cường thân kiện thể giúp thể lực khỏe mạnh để tu tâm luyện tánh không trở ngại, còn có loại khí công nhẹ nhàng cho người lớn tuổi tăng cường thể lực là Đạt Ma Dịch cân kinh. Thần y Hoa Đà chế ra môn khí công phòng bệnh và chữa bệnh gọi là Ngũ cầm hí ( hổ, báo, rồng, hạc, rắn) để chữa bệnh phù hợp với ngũ tạng.

     Cho đến ngày nay khí công trên thế giới đã phát triển lên đến hàng ngàn loại khác nhau, nhưng tạm chia thành bốn loại, loại khí công yoga hoặc thiền, khí công võ thuật, khí công dưỡng sinh phòng bệnh và khí công chữa bệnh. Riêng khí công chữa bệnh có hai loại, loại khí công nội lực truyền khí từ thầy thuốc sang bệnh nhân giúp bệnh nhân khỏe mạnh hết bệnh tật, loại khí công bệnh nhân được thầy thuốc hướng dẫn phải tự tập lấy các bài tập

 riêng cho phù hợp với bệnh của tạng phủ mình giúp cơ thể tự tạo ra thuốc từ hệ nội dược  để chữa bệnh, loại khí công tự chữa bệnh này đang được ngành y trên thế giới nghiên cứu .
    Khí công bắt đầu được nghiên cứu ở nhiều quốc gia do các bác sĩ vừa am tường phương pháp Tây y, vừa nghiên cứu học hỏi Đông y châm cứu, vừa luyện tập khí công qua cách thở hoặc qua các động tác theo hơi thở thấy có kết qủa kiểm chứng theo tiêu chuẩn tây y về những thay đổi của cơ thể bằng những thông số cân đong đo đếm được thành phần máu cụ thể qua những kiểm nghiệm bằng máy móc và bằng những biểu đồ điện tâm đồ, điện não đồ, điện phế đồ đo phế dung về tác dụng có lợi ích của khí công . Ở Pháp có giáo sư bác sĩ châm cứu Nguyễn Văn Nghi đã viết, dịch và giảng dạy châm cứu theo kinh điển Hoàng đế nội kinh và viết về khí công theo cách nhìn của một nhà khoa học thực nghiệm và Bác sĩ Nguyễn Tối Thiện thuộc nhóm Nghiên cứu và thực hành Thiền quán ở Pháp cũng đã nghiên cứu những lợi ích cho sức khỏe khi tập thở thiền. Ở Việt Nam có giáo sư bác sĩ Ngô Gia Hy người đã tập luyện khí công để tự chữa bệnh cao áp huyết cho mình khỏi bệnh và sau đó vừa tập vừa thực nghiệm những kết qủa khi tập khí công qua những cách thở khác nhau, đã mang lại cho chúng ta thêm niềm tin vào môn khí công nhờ vào những công trình nghiên cứu của giáo sư thấy có lợi cho cơ thể đối với hệ hô hấp, tuần hoàn tim mạch, hệ tiêu hóa, hệ thần kinh, hệ nội tiết, các tuyến hạch và đối với giấc ngủ .

II-Những nội dung cơ bản của Khí công Y Đạo Đỗ Đức Ngọc

      Trên cơ sở mấy chục năm  nghiên cứu khí công chữa bệnh, Thầy Đỗ Đức Ngọc đã đúc rút được 3 vấn đề cốt lõi  và đã trực tiếp chữa cho hàng vạn người trên thế giới cả người ngoại quốc và người Việt  từ các bệnh thông thường đến các  bệnh nan y. Những nội dung cốt lõi của KCYD Việt Nam đó là: Điều chỉnh Tinh, điều chỉnh khí, điều chỉnh thần để luôn luôn duy trì sự cân bằng trong cơ thể con người.

 Để thực hiện được những điều đó, KCYD sử dụng:

1.Điều chỉnh tinh

   Điều chỉnh bằng ăn uống hoặc dùng thuốc để tăng cường thêm tinh lực cho cơ thể và luôn luôn chú ý đến vấn đề ăn uống đúng để cân bằng âm dương.

    Ví dụ người huyết áp thấp thì không được ăn uống những thức ăn, đồ uống làm tăng áp huyết, ngược lại người hyết áp cao thì không được ăn thức ăn, đồ uống làm tăng huyết áp.

2. Điều chỉnh Khí

    Để điều chỉnh khí Phương pháp Động công.

     Mục đích của động công là tập luyện cơ thể bền bỉ dẻo dai, khai thông được khí huyết ở những vùng bị bế tắc đã gây nên bệnh, khai mở các huyệt của Kỳ kinh Bát mạch và các luân xa theo một nhịp độ sinh học đồng bộ giữa động tác và hơi thở thuận với nhịp sinh học trao đổi chất của âm dương, khí huyết để tự nó có thể khai mở được vòng Tiểu Chu Thiên và Đại Chu Thiên trong cơ thể, nhằm tăng cường khả năng tự chữa bệnh và phòng chống bệnh không những cho chính bản thân mà còn có khí lực và thần lực để chữa bệnh cho người khác mà không sợ mệt và mất khí như những thầy chữa bệnh khác.
    Những bài tập động công cũng có thể áp dụng hướng dẫn cho người bệnh tập luyện nhằm tăng cường dương khí, những động tác tay chân đều theo quy luật trong âm có dương, trong dương có âm và các động tác phải phù hợp với hơi thở tùy theo mỗi trường hợp bệnh cần chữa trị.
    Các  thế khí công căn bản để trị bệnh thuộc phần Động công, chú trọng vào sự điều chỉnh khí hóa của hệ thống Tam Tiêu, điều chỉnh thần kinh ( thần ), thông khí huyết cho lục phủ ngũ tạng, chuyển khí chạy theo vòng Nhâm-Đốc theo thứ tự đi hết một vòng Tiểu Chu Thiên và tăng cường khí hoạt động cho Tam tiêu là Tông khí , Ngũ hành khí, Nguyên khí.
a)Khí của vùng thượng tiêu

  Do Đan điền Khí vận hành bởi hơi thở của phế khí được tăng cường do hít thở sâu cho dưỡng khí vào đầy phổi được tích lũy dư thưà hơn người bình thường, chỉ những người tập thể dục thể thao hoặc tập khí công mới có được, gọi là TÔNG KHÍ, nhờ nó tích lũy được nhiều oxy trong phổi mới làm tăng được hồng cầu và tăng áp lực kích thích sự tuần hoàn của tim mạch được mạnh hơn bình thường.

b)Khí của vùng trung tiêu

Do Đan điền Thần vận hành bởi khí của lục phủ, ngũ tạng được tăng cường sự sinh hóa chủ động có kiểm soát để có thể tăng cường chức năng hoạt động của lục phủ, ngũ tạng giúp cho sự hấp thụ và chuyển hóa khí huyết lưu thông khắp các kinh mạch, gọi là NGŨ TẠNG KHÍ .
c)Khí của vùng hạ tiêu

Do Đan điền Tinh vận hành bởi Nguyên khí Tiên thiên bẩm sinh tích lũy tại Thận, được bảo vệ, duy trì và tiếp nạp tồn trữ thêm khí Hậu thiên do ăn uống. Khi tập Khí công đưa hơi thở vào Đan điền tinh để tăng cường chức năng hoạt động của Thận làm cho Nguyên khí Tiên thiên hoạt động mạnh hơn, giúp cho sự sinh hóa, chuyển hóa tinh chất của thức ăn hóa khí, chuyển khí hóa thần giúp Thận có khả năng hoạt động khỏe và lâu bền, kéo dài tuổi thọ hơn, gọi là Nguyên khí hậu thiên do tập luyện khí công mà có được, gọi chung cả hai loại khí của thận là NGUYÊN KHÍ.

   Khi ba loại Tông khí, Ngũ tạng khí và Nguyên khí cùng hòa hợp đúng và đủ mới có thể chọn lọc được cốc khí ( chất bổ của thức ăn ) để sinh hóa và chuyển hóa trọn vẹn cốc khí thành hai loại khí quan trọng và cần thiết cho cơ thể là khí dinh dưỡng gọi là VINH KHÍ ( là cốc khí chuyển hóa thành máu nuôi dưỡng cơ thể phát triển) và khí bảo vệ gọi là VỆ KHÍ (là cốc khí chuyển hóa thành khí lực giúp máu tuần hoàn, và điều chỉnh số lượng hồng cầu, bạch cầu, huyết thanh, huyết bản, các loại hocmon các loại kháng thể cần thiết để bảo vệ cơ thể tăng cường sức đề kháng khi có bệnh ).

    Khí Vinh và Vệ mạnh hay yếu, lệ thuộc vào Tông khí từ Đan điền khí, tuần hoàn luân phiên qua huyệt Chiên Trung (giao điểm đường giữa ngực và đường ngang qua hai núm vú), khi ấn ngón tay vào huyệt không có cảm giác đau là người khỏe mạnh, ngược lại nếu có cảm giác đau là cơ thể đã thiếu hụt hai loại khí Vinh-Vệ do mất quân bình của ba loại khí ở Tam tiêu.
 3. Điều chỉnh thần

       Để điều chỉnh thần thực hiện tập tĩnh công.

    Theo quy luật âm dương hòa hợp, tập Động công là tập tăng cường dương khí và tập Tĩnh công là phần âm chuyển hóa khí làm mạnh chức năng thần kinh, nhưng trong cách luyện và theo dõi hơi thở cũng thể hiện quy luật trong âm có dương, mục đích điều khiển hơi thở nhằm khai thông các đại huyệt ( luân xa = charkra ) trên mạch Nhâm-Đốc , giúp cho tinh-khí-thần hòa hợp, cùng vận hành liên tục theo vòng Tiểu chu thiên để tạo ra một hệ thống phòng chống bệnh tự động trong cơ thể. Tĩnh công phải hội đủ ba điều kiện là điều thân, điều ý, điều tức.

a)Điều thân :

Có nhiều cách tập thở ở tư thế đứng, nằm, ngồi, ở đây chúng tôi hướng dẫn cách ngồi để nạp khí và cách nằm để dưỡng thần.

b)Điều ý :

Với khẩu quyết của khí công Ý ở đâu khí ở đó, khí đến đâu huyết đến đó cho nên tùy theo mục đích chữa bệnh hợp với nhu cầu cơ thể cần, như muốn tăng cường sự khí hóa, cần tăng huyết, cần an thần.. ý sẽ được tập trung vào các vị trí khác nhau ở Đan điền khí,  Đan điền thần,  Đan điền tinh hoặc ở huyệt Mệnh môn..

c)Điều tức :

Là tập điều hòa hơi thở được tự nhiên : nhẹ, chậm, sâu, lâu, đều, tự nhiên cho thành một thói quen, nhằm khai thông các huyệt đạo trên Nhâm-Đốc mạch giúp cho tinh-khí-thần hòa hợp, cùng vận hành liên tục theo vòng Tiểu chu thiên để tạo ra một hệ thống phòng chống bệnh tự động trong cơ thể.

Điều hòa hơi thở đúng sẽ làm thay đổi chức năng co bóp của tim và nhịp tim được cải thiện ngay sau khi tập, đã được kiểm chứng đo điện tâm đồ.

     Tập thở chú ý đến điều chỉnh hơi thở nhẹ, chậm, sâu, lâu, đều, tự nhiên, không gò bó không ép hơi, tạo thành nhịp thở sinh học đều đặn theo chu kỳ khoảng 6 đến 12 hơi thở ra thở vào trong một phút, sẽ giúp cho hệ thống miễn nhiễm được mạnh gấp nhiều lần hơn những người khác. Bình thường một người khỏe mạnh không bệnh tật, thở trung bình một phút được 18 hơi, nếu đến tuổi già vẫn giữ được 18 hơi thì tuổi thọ có thể sống lâu 100 tuổi. Nếu hơi thở trên 18 hơi là cơ thể đã có bệnh (thí dụ như bị thở gấp, ngắn hơi, hụt hơi trong bệnh tim mạch, suyễn, đau đớn..) thì tuổi thọ sẽ giảm. Con rùa thở 2 hơi trong một phút, tuổi thọ trung bình của rùa sống được 300 năm. Như vậy chúng ta muốn cơ thể khỏe mạnh sống lâu phải tập luyện cho thành thói quen tự nhiên với nhịp thở sinh học đều đặn dưới 18 hơi một phút, càng thở ít hơi, tuổi thọ càng cao.

     Với mục đích tự chữa bệnh, 40 bài tập động công được chọn lựa cô đọng, tập với nhịp thở từ 6 đến 12 hơi trong một phút, theo trình tự từ bài đầu đến bài cuối sẽ có lợi ích nhiều cho việc điều chỉnh tinh-khí-thần, khai thông khí huyết toàn thân, tăng cường được cả 5 loại khí giúp cơ thể đủ khả năng tự động phòng chống bệnh tật có hiệu qủa trong các bệnh đau nhức đầu, phong thấp đau nhức tay chân, đau lưng gối, thần kinh tọa, các bệnh thuộc nội tạng tuần hoàn tim mạch như bệnh áp huyết, rối loạn nhịp tim, thiếu máu não, bệnh thuộc hô hấp như suyễn, lao phổi, khó thở, bệnh thuộc hấp thụ, tiêu hóa như tiểu đường, cholesterol, gan, mật, bao tử, bệnh đường ruột như táo bón, tiêu chảy, bệnh rối loạn nội tiết..
    Ngoài ra có 3 bài tập thở tĩnh công để dưỡng tâm an thần, tăng cường hệ thống thần kinh, hệ miễn nhiễm và nội tiết giúp bệnh mau hồi phục.

Đã có nhiều người tập đều đặn một thời gian, sức khỏe được cải thiện, họ lấy làm lạ, những bệnh tật kinh niên tự biến mất dần, ít phải dùng thuốc hơn, nhất là các bệnh đau nhức chân tay, lưng gối, cảm cúm, nhức đầu, chóng mặt, dị ứng cây cỏ và thời tiết, ho hen, suyễn, áp huyết, tiểu đường.. biến mất, lại ăn ngon, ngủ khỏe. Họ lấy làm lạ, vì các thế tập trong bài không có gì đặc biệt, cầu kỳ và khó nhớ, khó tập như các môn khí công khác, nhưng kết qủa thật kỳ diệu, như một phép lạ. Các động tác được cài đặt có trình tự để thông khí huyết, khai thông kỳ kinh bát mạch để cơ thể tự tuần hoàn theo vòng Tiểu chu thiên và Đại chu thiên.

4.Cách khám bệnh bằng KCYD

  Đông y có Bát cương( 8 Cương lĩnh) để qui loại bệnh: Âm- Dương, Biểu –Lý, Hàn- Nhiệt, Hư- Thực, Bát Pháp( 8 Phương pháp) để trị bệnh: Hãn, Hòa, Hạ, Tiêu, Thổ, Thanh, Ôn, Bổ. Khi chẩn bệnh Đông Y dùng Tứ chẩn: Vọng, văn, vắn Thiết.

    Khí Công Y Đạo cũng sử dụng  Bát cương , Bát pháp và Tứ chẩn nhưng theo cách riêng: Đó là sử dụng những thành tựu của Tây Y để vận dụng vào khám bệnh thay cho   bắt mạch của ĐY và cho kết quả chính xác cao hơn và thậm chí rất ngạc nhiên mà cả Đông Y và Tây Y cũng chưa ngờ tới.

 KCYD dùng 4 thiết bị sau:

1.Máy đo huyết áp

2.Máy đo đường huyết

3. Máy đo nhiệt độ cơ thể

4. Máy đo oxymeter

    Xin trình bày rõ hơn về sử dụng máy đo HA để chản đoán bệnh

Bảng tiêu chuẩn áp huyết  của người khỏe mạnh theo KCYD:

    Cách chữa đúng gốc bệnh cần phải bổ sung khí huyết cho cơ thể đầy đủ, kết qủa điều trị phải được kiểm chứng bằng máy đo áp huyết lọt vào tiêu chuẩn lứa tuổi dưới đây thì bệnh mới mau khỏi.

1. Áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi)

95-100/60-65mmHg, mạch nhanh có thể từ 120- 140 nhịp.

2.Áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi)

100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65

3. Áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)

110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70

4. Áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)

120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75

5.Áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)

130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80

     Khác với  Tây Y, KCYD luôn đo huyết áp cả 2 tay để từ đó tìm ra bệnh thuộc Âm- Dương, Biểu – Lý, Hàn- Nhiệt, Hư – Thực.

     KCYD đã chứng minh được bằng thực nghiệm HA trong cơ thể con người  phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có khí của Lục phủ, Ngũ tạng.

     Đo huyết áp 2 tay trước và sau khi ăn 30 phút còn tìm ra được sự chuyển hóa đúng, sai của chức năng bao tử và gan.

     Dùng súng bắn nhiệt độ có thể biết được các vùng của cơ thể cũng như các đường kinh lạc bị hàn, nhiệt.

     Dùng máy thử tiểu đường để biết lượng đường huyết trong cơ thể cũng như các đường kinh có nằm trong tiêu chuẩn hay không để từ đó điều chỉnh bằng ăn uống cho phù hợp

    Dùng máy oximeter để đo lượng oxy trong cơ thể cũng như trên các đường kinh lạc để biết kinh nào thiếu khí để điều chỉnh bằng tập các bài khí công cho phù hợp.

     Sau đây xin giới thiệu một ca  chữa bệnh theo KCYD của Thầy Đỗ Đức Ngọc:  

May mắn thoát khỏi mổ tim 

Nữ bệnh nhân trên 60 tuổi còn đang độ tuổi đi làm, thường bị mệt, bác sĩ đo áp huyết thấy cao thường xuyên ở mức 160mmHg nên bà phải dùng thuốc điếu trị áp huyết suốt đời. Sau một năm điều trị, bác sĩ gia đình vẫn kiểm tra áp huyết định kỳ, áp huyết của bà đã xuống 120-130 rất tốt, nên dặn bà cứ uống thuốc đều đặn. Bệnh nhân yên chí tuân theo lời bác sĩ, và cứ đi khám định kỳ, áp huyết xuống thấp hơn 110mmHg, theo tây y là qúa tốt nhờ có uống thuốc đều đặn.

Sau này, thỉnh thoảng bệnh nhân hay bị mệt, khó thở, đầu óc choáng váng, chân đi không vững, khi đi thân người muốn chúi nhủi về phía trước, bác sĩ gia đình gửi bệnh nhân đi chuyên khoa tim mạch.

Chuyên khoa tim mạch xét nghiệm xong, yêu cầu bà tạm nghỉ làm, cho bà uống thuốc đặc biệt và chờ ngày nhập viện để mổ tim. Kể từ ngày đó bà hay chóng mặt, đi đứng lảo đảo, mệt tim, khó thở, ăn uống không được, tâm trạng nửa lo sợ phải mổ tim, vì ý của bà không muốn mổ, nhưng một mặt mừng vì bà được may mắn bác sĩ đã tìm ra bệnh của bà, vì tình trạng bệnh của bà cảm thấy càng ngày càng nặng không biết sẽ chết bất đắc kỳ tử lúc nào.

Bà có người thân trong gia đình cũng trong ngành y khoa, trước kia là bệnh nhân của tôi, có ý muốn giúp bà. Cô ấy đã đến gặp tôi, nhờ tôi đến nhà bà để xem bệnh tình ra sao, có cần phải mổ hay không.

Khám Bệnh :

Tôi đo áp huyết bên tay trái 104/64mmHg mạch 65, tay phải 101/62mmHg mạch 65, mỗi bên khi đo, máy đo nhồi 2 lần mới cho ra kết qủa. Đo lại nhiều lần máy cũng nhồi 2 lần.

Định Bệnh :

Nếu ai đã từng học cách khám bệnh và định bệnh bằng máy đo áp huyết, cũng đều biết bệnh nhân bị bệnh gì.

a-Tôi cho bà biết bà bị khó thở vì cholesterol đóng hẹp ống mạch vào tim nên máy bị nhồi 2 lần.

b-Con số thứ nhất của máy chỉ áp huyết qúa thấp do thiếu khí huyết, nghĩa là thiếu máu tuần hoàn trong cơ thể do uống thuốc hạ áp huyết xuống thấp bằng áp huyết của một đứa trẻ.

c-Số đo thứ hai nhỏ hơn tiêu chuẩn 70-90 cho biết van tim bị hẹp, do đó tây y cần phải mổ để nong rộng ống mạch, nếu không tim bị tắc nghẽn mạch không trao đổi oxy được, làm khó thở nhưng nó sẽ ngừng đập bất tử.

d-Số thứ ba chỉ nhịp mạch tim đập yếu, theo đông y là mạch trì, người hàn lạnh. Bà cho biết đầu ngón tay lạnh tê, chân lúc nào cũng phải đi vớ mà vẫn cảm thấy lạnh.

Cách điều chỉnh theo Tinh-Khí-Thần :

Tinh :

Người nhà cho bà uống 1 ống Acti-B12 và 1 ly nước gừng mật ong, cho tăng khí huyết, tăng áp huyết trước khi tập khí công.

Chân của bà đi vớ, sờ cổ chân vừa lạnh vừa phù, do chức năng thận dương hư, tôi đề nghị bà mua Bát Vị Quế Phụ, mỗi lần ngậm 20 viên trong miệng cho tan dần, mỗi ngày 3 lần để làm ấm cơ thể, mạnh thận dương, tăng áp huyết.

Khí và Thần:

a-Hướng dẫn cho bà tập bài Nạp Khí Trung Tiêu 3 lần sau đó tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 50 lần, tập xong cuốn lưỡi ngậm miệng, nằm thở thiền ở Đan Điền Thần 5 phút, tập trung ý ở mỏm xương ức dưới lòng bàn tay phải, tay trái đặt chồng lên trên. Rồi đo thử áp huyết, tay trái lên được 110/68mmHg mạch 70, tay phải 112/68mmHg mạch 71.

Theo kết qủa của máy đo, khí huyết có tăng nhưng chưa đủ theo tiêu chuẩn từ 130-140mmHg. Số thứ hai van tim đã hoạt động mạnh hơn từ 65 đã lên 68, số thứ ba chỉ thân nhiệt đã tăng từ 65 lên 70-71, nhưng máy đo không bị nhồi hai lần là tim mạch đã thông.

Tôi cho bà biết là bà đã biết cách tập khí công để tự cứu bà, khi nào áp huyết của bà lọt vào tiêu chuẩn của khí công, thì bà khỏi cần phải mổ .

Tôi cũng cho bà biết sự lợi ích của 2 bài tập : Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần làm tăng áp huyết, tăng thân nhiệt, kích thích tiêu hóa, mạnh chức năng hoạt động của tim, phổi. Bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng tối đa 200 lần để thông khí huyết toàn thân, giúp máu chạy đều khắp cơ thể và tống độc tố ra bằng đường mồ hôi, loại bỏ cặn bã trong cơ thể thoát ra bằng đường tiêu tiểu, nhưng muốn áp huyết hạ, sau khi tập xong thì thở bằng miệng, nếu áp huyết thấp thì ngậm miệng, cuốn lưỡi, thở bằng mũi để giữ cho áp huyết tăng lên, như vậy bài tập này có công dụng điều chỉnh áp huyết.

Tôi yêu cầu bà thử tập lại một lần nữa một mình để tự biết cách điều chỉnh tim mạch áp huyết.

Sau khi bà tập xong, trán của bà xuất mồ hôi, hơi thở mạnh, bà cảm thấy khỏe, đo lại áp huyết, tay trái 125/75mmHg mạch 73, tay phải 128/78mmHg mạch 75. Tôi nói, bà tập thế nào mà con số thứ hai ở trong khoảng 70-90 là van tim và ống mạch được thông, thì không cần phải mổ, còn nhịp tim đập từ 70-80 thì cơ thể nóng ấm, không sợ bị lạnh, số đầu tiên muốn tăng lên đúng tiêu chuẩn 130-140, cần phải uống Acti-B12.

Sau khi tập bà cảm thấy khỏe hoàn toàn, đi đứng vững chắc, hơi thở thông, bà muốn ngày mai đi làm trở lại.

Ngày hôm sau, bà đến sở làm, mọi người ngạc nhiên thấy bà đã khỏe bình thường, riêng bà cảm thấy mừng, gọi điện thoại cho bạn bè chia sẻ niềm vui với mình, chiều tan sở, bà đến phòng mạch của tôi để nhờ tôi xem lại, kết qủa áp huyết ổn định, tay trái 129/78mmHg mạch 74, tay phải 130/81mmHg mạch 75

Đến ngày hẹn mổ, tôi thường dặn bệnh nhân là bệnh viện đã sắp xếp lên kế hoạch có sẵn ê kíp mổ, vì căn cứ trong hồ sơ, kết qủa tim mạch qúa suy nhược, bắt buộc phải mổ. Nếu mình không yêu cầu khám lại, thì mình phải bị mổ oan. Còn bệnh nhân cho bác sĩ biết là tôi đã cảm thấy khỏe mạnh bình thường, không còn cảm thấy bệnh nữa, xin yêu cầu cho tôi kiểm tra lại tim mạch trước khi mổ, thì sau khi kiểm tra lại, bác sĩ sẽ cho về nhà, vì theo kết qủa mới, không cần mổ nữa.

Đa số những bệnh nhân người Việt cũng như người ngoại quốc tập khí công, rồi cũng đến ngày hẹn mổ đều đề nghị bác sĩ khám tim mạch lại trước khi mổ, cuối cùng khỏi bị mổ oan, đã có người cách đây 5-10 năm, các bác sĩ điều trị tim mạch cho họ vẫn không thấy dấu hiệu nào để phải mổ. 

                                                                    Hà Nội, tháng 5 năm 2012

                                                                           Vương Văn Liêu


Chưa có lời bình nào. Bắt đầu